Đặt vấn đề
Trẻ em nhiễm HIV điều trị ARV trong thời gian dài chịu nhiều ảnh hưởng từ hỗ trợ của người chăm sóc đặc biệt là trẻ nhỏ, sự kỳ thị của gia đình, xã hội, sự hiểu biết của trẻ và người chăm sóc… từ đó ảnh hưởng đến tuân thủ và kết quả điều trị của trẻ. Trẻ em nhiễm HIV ở Bệnh viện Nhi Trung ương được theo dõi điều trị ARV dài nhất là 17 năm. Số liệu về hiệu quả điều trị trong thời gian dài và yếu tố nào ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị ARV ở trẻ em nhiễm HIV tại Việt Nam ít được báo cáo.
Mục tiêu: Nhận xét kết quả điều trị ARV và phân tích một số yếu tố liên quan ở trẻ em nhiễm HIV tại Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 10 năm 2022 đến tháng 04 năm 2023.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu theo dõi hồi cứu 312 trẻ em dưới 16 tuổi tại thời điểm được chẩn đoán nhiễm HIV và đăng ký điều trị ARV tại Bệnh viện Nhi Trung ương từ 01/01/2006 đến 30/04/2018.
Kết quả: tuổi trung bình (15,8 ± 4,1) tuổi. Tỷ lệ nam/nữ là 1,36/1. Tại thời điểm nghiên cứu: 93,9% (293/312) trẻ có số lượng TCD4 bình thường, 94,9% (296/312) trẻ có tải lượng vi rút dưới 200 bản sao/mm3. Trong quá trình điều trị có: 19,9% (62/312) trẻ thất bại ARV bậc 1, 4,2% (13/312) trẻ thất bại ARV bậc 2. Khi bắt đầu điều trị ARV: 53,5% trẻ ở giai đoạn lâm sàng 3, 4. 69,6% (215/309) trẻ có số lượng TCD4 ở mức suy giảm miễn dịch nặng, đây được coi là yếu tố dự báo thất bại điều trị ARV bậc 1 (OR = 2,15; [95%CI: 1,062 – 4,354], p = 0,031). Một số yếu tố nguy có ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị ARV bậc 1: trẻ mất bố hoặc mẹ hoặc mất cả bố và mẹ (OR = 2,2; [95%CI: 1,241 – 3,971], p = 0,006), kỳ thị và phân biệt đối xử (OR = 4,6 [95%CI: 2,07 – 10,086], p = 0,0001), trẻ biết mình nhiễm HIV (OR = 3,9; [95%CI: 1,791 – 8,623], p = 0,0001), trẻ cảm thấy khó chịu với tình trạng nhiễm HIV (OR=2,4; [95%CI: 1,292 – 4,451], p = 0,005), trẻ tự lấy thuốc uống (OR = 6,6 [95%CI: 2,006 – 21,88], p = 0,0001); trẻ bỏ học hoặc không đi học (OR=2; [95%CI: 0,991- 4,042], p=0,05). Phân tích hồi quy logistic đa biến xác định được một số yếu tố thất bại điều trị ARV bậc 2: trẻ cảm thấy khó chịu với tình trạng nhiễm HIV [OR=11,3; 95%CI: 1,455 – 88,054; p=0,02]; trẻ không biết mục đích điều trị ARV [OR=12,8; 95%CI: 1,091 – 150,669; p=0,042].
Kết luận: Trẻ em nhiễm HIV bắt đầu điều trị ARV muộn, đa số trẻ em đã suy giảm miễn dịch nặng và ở giai đoạn lâm sàng 3, 4. Khoảng 1/4 số trẻ điều trị ARV thất bại điều trị bậc 1, và một số trẻ thất bại điều trị ARV bậc 2. Các yếu tố gây thất bại điều trị ARV bậc 1 là: Suy giảm miễn dịch nặng khi bắt đầu điều trị ARV, sử dụng Stavudin trong phác đồ điều trị ARV, trẻ có bố hoặc mẹ hoặc cả bố mẹ đã mất, trẻ bị kỳ thị và phân biệt đối xử, biết mình nhiễm HIV, cảm thấy khó chịu với tình trạng nhiễm HIV, bỏ học hoặc không đi học, tự lấy thuốc uống. Các yếu tố gây thất bại điều trị ARV bậc 2 là: trẻ khó thích nghi, cảm thấy khó chịu với tình trạng nhiễm HIV, không biết mục đích điều trị ARV.
Từ khóa: HIV, điều trị HIV trẻ em, điều trị HIV, trẻ em, điều trị ARV.